Chương trình đào tạo
Các khóa học ngắn hạn
Các khóa học dài hạn
Lịch tuyển sinh
Đăng ký trực tuyến
        Tin nóng
 
         Tìm kiếm thông tin
         Hỗ trợ trực tuyến
Phòng Tổng hợp
Phòng nghiên cứu Kinh tế - Tài chính
         Liên kết website
         Đối tác khách hàng
         Thông kê truy cập
Online: 2
Visited: 1125988
 
  

 

 

Báo cáo phân tính dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 8 năm 2021

1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2021 tăng 0,62% so với tháng trước tăng2,64%so với tháng 7/2020. Bình quân 7 tháng đầu năm 2021, CPI tăng 1,64% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016.

1.1. Diễn biến

Theo số liệu vừa được công bố từ Tổng cục Thống kê, CPI tháng 7/2021 tăng 0,62% so với tháng 6/2021. Nguyên nhân chủ yếu là do:

- Thứ nhất,giá xăng dầu trong nước tăng theo giá nhiên liệu thế giới, cụ thể giá xăng tăng 7,08%, dầu diezen tăng 6,97% do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh giá vào ngày 26/6/2021, 12/7/2021 và 27/7/2021 làm cho chỉ số giá nhóm giao thông tháng 7/2021 tăng 2,36% so với tháng trước.

- Thứ hai, giá gas tăng theo giá nhiên liệu thế giới và giá điện sinh hoạt tăng theo nhu cầu sử dụng trong mùa nắng nóng, làm cho giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tháng 7/2021 tăng 0,88% so với tháng trước.

- Thứ ba, giá nhóm thực phẩm tăng 0,95% tại một số địa phương thực hiện giãn cách xã hội phòng chống dịch Covid-19 do người dân có tâm lý lo ngại thiếu hàng hóa đã tăng cường tích trữ làm cho giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,67% so với tháng trước.

So với cùng kỳ năm ngoái, CPI tháng 7/2021 tăng 2,64% so với tháng 7/2020 và tăng 2,25%so với tháng 12/2020. Bình quân 7 tháng đầu năm 2021, CPI tăng 1,64% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016 tới nay. 

 

CPI tháng 7/2021 so với

CPI bình quân 7 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ năm 2020

Tháng 6
năm 2021

Tháng 12
năm 2020

Tháng 7 năm 2020

Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng

+0,62%

+2,25%

+2,64%

+1,64%

Nguyên nhân chính khiến CPI bình quân 7 tháng đầu năm 2021 vẫn tăng so với cùng kỳ năm 2020 là do:

- Thứ nhất,giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh 12 đợt trong 7 tháng đầu năm làm cho giá xăng A95 tăng 5.210 đồng/lít; giá xăng E5 tăng 4.980 đồng/lít và giá dầu diezen tăng 4.000 đồng/lít khiến giá xăng dầu trong nước bình quân 7 tháng năm nay tăng 20,36%,tác động làm cho giá giao thông tăng mạnh nhất với 6,76%.

- Thứ hai, giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng gạo nếp và gạo tẻ ngon trong dịp Tết Nguyên đán tăng cao làm cho giá gạo 7 tháng đầu năm 2021 tăng 6,83% so với cùng kỳ năm trước, tác động khiến giá nhóm lương thực tăng tới 5,45%.

-Thứ ba, giá dịch vụ giáo dục 7 tháng tăng 4,46% so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng từ đợt tăng học phí năm học mới 2020-2021 theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ.

Bên cạnh đó, một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI 7 tháng đầu năm đó là giá các mặt hàng thực phẩm giảm 0,44% so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá thịt lợn giảm 5,4%; giá thịt gà giảm 1,7%; giá điện sinh hoạt giảm 1,79% so với cùng kỳ năm 2020 do Chính phủ triển khai gói hỗ trợ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho người dân và người sản xuất gặp khó khăn do dịch Covid-19; giá vé tàu hỏa giảm 1,27%, giá vé máy bay giảm 18,66% và giá du lịch trọn gói giảm 2,83% do ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến người dân hạn chế đi lại. Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, các ngành các cấp đã tích cực triển khai thực hiện các giải pháp đồng bộ để ngăn chặn dịch bệnh và ổn định giá cả thị trường.

Về lạm phát cơ bản (theo thước đo CPI loại trừ lương thực, thực phẩm, năng lượng và mặt hàng do nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục), tháng 7/2021 giảm 0,06% so với tháng trước, tăng 0,99% so với tháng 7/2020. Bình quân 7 tháng năm 2021, lạm phát cơ bản tăng 0,89% so với cùng kỳ năm 2020, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 1,64%), điều này phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực, giá xăng, dầu, điện và giá gas tăng. Mức lạm phát cơ bản tháng 7 và 7 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước đều là mức thấp nhất kể từ năm 2011.

1.2. Dự báo

Dự báo CPI năm 2021 tăng trung bình 2,5% (+-0,25%)

Hiện tại, chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2021 đã tăng 0,62% so với tháng trước và tăng 1,64% so với tháng 12/2020. Như vậy, trong vòng 7 tháng qua CPI tăng trung bình khoảng 0,32%/tháng. Nếu tốc độ tăng giá này được duy trì trong thời gian còn lại của năm, lạm phát so với cùng kỳ năm trước sẽ tăng từ mức 2,41% hiện nay lên mức 3,89% vào tháng 12/2021, đồng thời lạm phát trung bình của cả năm 2021 sẽở mức 2,36%. Trong trường hợp giá xăng dầugiữ ở mức cao và CPI giảđịnh tăng trung bình 0,5%/tháng thời gian tới, lạm phát so với cùng kỳ của tháng 12/2021 sẽở mức 4,83%, nhưng lạm phát trung bìnhcả năm cũng chỉở mức 2,6%.

Với những giảđịnh trên, chúng tôi dự báo lạm phát trung bình trong năm 2021 sẽvào khoảng 2,5% (+-0,25%) vàchắc chắn dưới mức 3%, bất chấp giá xăng dầu và giá nguyên vật liệu trên thế giớiđang ở mức cao.

Thực trạng lạm phát thấp hiện nay và trong cả năm 2021 có nguyên nhân chính là do cầu tiêu dùng trong nước rất yếu bởi tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 tới thu nhập, đời sống của người dân là rất lớn. Do sự sụt giảm của cầutiêu dùng nộiđịa, lạm phát cơ bản trong tháng 7/2021 giảm 0,06% so với tháng trước và chỉ tăng 0,99% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản thấp cùng với sự sụt giảm của giá thực phẩm (như giá thịt lợn, giá thịt gà) đã cân bằng hết tất cả các tác động của giá xăng dầu, giá vật liệu xây dựng tăng cao thời gian qua.

Như vậy, tổng cầu yếu do Covid-19 là nguyên nhân cơ bản giữ cho lạm phát tại Việt Nam được duy trìở mức thấp trong bối cảnh giá các hàng hóa cơ bản trên thế giới tăng cao. Với tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhiều địa phương vẫn tiếp tục thực hiện giãn cách trong tháng 8/2021, tổng cầu sẽ không thể hồi phục lại ngay. Như vậy, mục tiêu kiềm chế lạm phát trung bình cả nămở mức dưới 4% trong năm 2021 chắc chắn sẽđạt được.

2. Dự báog bình quân của dầu thô và xăng dầu thành phẩm thế giới tháng 8/2021sẽ giảm từ 0-4% so với tháng 7/2021.

2.1. Thị trường thế giới:

Tại hội nghị trực tuyến diễn ra ngày 02/7/2021, OPEC+ đã không đạt được thỏa thuận nào khi bàn thảo phương án nên giữ nguyên chính sách sản lượng hay nới lỏng thêm nguồn cung. 

Ngày 18/7/2021, các bộ trưởng OPEC+ đã đồng ý tăng nguồn cung dầu từ tháng 8/2021 để hạ nhiệt giá dầu khi giá đã leo lên mức cao nhất trong hơn 2 năm qua trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu phục hồi sau đại dịch Covid-19. Theo đó, từ tháng 8/2021 đến tháng 12/2021, nhóm sẽ tăng nguồn cung thêm 2 triệu thùng/ngày. Đồng thời, OPEC+ đã đồng ý gia hạn hiệp ước tổng thể cho đến cuối năm 2022 để có thêm cơ hội điều động trong trường hợp đà hồi phục của kinh tế toàn cầu bị đình trệ do các biến thể virus mới.Để khắc phục bất đồng, OPEC+ đã đồng ý hạn ngạch sản lượng mới cho một số thành viên trong nhóm từ tháng 5/2022, bao gồm UAE, Ả Rập Saudi, Nga, Kuwait và Iraq.Theo tính toán của Reuters, sự điều chỉnh này sẽ bổ sung 1,63 triệu thùng/ngày vào nguồn cung từ tháng 5/2022.

Theo báo cáo tháng 7/2021 của OPEC+ thì trong tháng 6/2021, nhu cầu dầu toàn cầu ước tính đã tăng lên 96,8 triệu thùng/ngày (nhu cầu dầu tháng 6/2020 đạt 92,3 triệu thùng/ngày).

Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) dự báo nhu cầu sẽ tăng liên tục trong nửa cuối năm 2021 và đạt mức 101,43 triệu thùng/ngày vào tháng 12/2021, đưa trung bình cả năm lên mức 97,65 triệu thùng/ngày, tăng 5,8% so với trung bình 2020, tương đương tăng 5,38 triệu thùng/ngày.

Trong 3 tuần đầu tháng 7/2021, giá dầu thô thế giới biến động giảm khi các nhà đầu tư lo ngại về sự bùng phát của biến thể Delta dấy lên lo ngại về nhu cầu dầu.Tuy nhiên, dữ trữ dầu thô của Mỹ giảm và dự báo nguồn cung dầu vẫn sẽ thắt chặt đã hạn chế đà giảm giá dầu. EIA báo cáo rằng lượng dầu dự trữ của nước này đã giảm 4,1 triệu thùng trong tuần tính đến ngày 23/7/2021. Tính tới ngày 27/7/2021, kho lưu trữ của Cushing (Mỹ) có 36.299 triệu thùng dầu, giảm 360.917 thùng so với ngày 23/7/2021. Đây là lần giảm thứ bảy liên tiếp của trung tâm chuyên giao vận các hợp đồng năng lượng kỳ hạn của Mỹ.

Diễn biến này làm cho:

- Giá dầu thô bình quân của 3 thị trường Brent, Dubai và West Texas  Intermediate tháng 07/2021 ở mức 73,28USD/thùng (tăng 2,06% so với tháng 06/2021);

- Giá xăng RON 95 bình quân tại thị trường Singapore tháng 07/2021 ở mức 85,73USD/thùng (tăng 7,35% so với tháng 06/2021).

2.2. Thị trường Việt Nam:

Tháng 07/2021, do giá xăng dầu thế giới biến động nên Liên Bộ Công Thương – Tài Chính đã điều chỉnhgiá bán lẻ xăng dầu tăng vào ngày 12/07 và giảm vào ngày 27/07/2021. Cụ thể, giá bán lẻ một số mặt hàng xăng dầu được điều chỉnh như trong bảng 1.

Bảng 1: Giá xăng dầu bán lẻ tại vùng 1 tháng 7/2021

 

Xăng RON 95-III (đồng/lít)

Xăng E5 RON 92-II (đồng/lít)

Dầu hỏa (đồng/lít)

Dầu Diesel 0,05S-II (đồng/lít)

Dầu Mazut 3,5S (đồng/kg)

Mức giá từ ngày 26/06/2021

20.910

19.760

15.050

16.110

15.440

Mức giá từ ngày 12/07/2021

21.780

20.610

15.500

16.530

15.670

Mức giá từ ngày 27/07/2021

21.680

20.490

15.390

16.370

15.520

Mức giá ngày 12/07 so với 26/06/2021

Số tuyệt đối

870

850

450

420

230

%

4,16

4,30

2,99

2,61

1,49

Mức giá ngày 27/07 so với 12/07/2021

Số tuyệt đối

-100

-120

-110

-160

-150

%

-0,46

-0,58

-0,71

-0,97

-0,96

Mức giá ngày 27/07 so với 26/06/2021

Số tuyệt đối

770

730

340

260

80

%

3,68

3,69

2,26

1,61

0,52

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Petrolimex

Như vậy, giá xăng dầu vùng 1 được điều chỉnh vào ngày 27/7/2021 như sau: giá xăng RON 95-III là 21.680VND/lít (tăng 770VND/lít, tương đương 3,68% so với cuối tháng 6/2021); giá xăng E5 RON 92-II là 20.490VND/lít (tăng 730VND/lít, tương đương 3,69%); dầu hỏa là 15.390VND/lít (tăng 340VND/lít, tương đương 2,26%); dầu Diesel 0,05S-II là 16.370VND/lít (tăng 260VND/lít, tương đương 1,61%); dầu Mazut 3,5S là 15.520VND/kg (tăng 80VND/lít, tương đương 0,52%)…

Cùng với việc điều chỉnh giá xăng dầu, Liên Bộ Tài chính - Công Thương đã thực hiện mức trích lập và chi sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu trong tháng 7/2021 như được nêu cụ thể ở bảng 2 và 3.

Bảng 2: Mức trích lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu tháng 7/2021

 

Xăng các loại (trừ xăng sinh học, đồng/lít)

Xăng E5 (đồng/lít)

Dầu hỏa (đồng/lít)

Diesel (đồng/lít)

Mazut các loại (đồng/kg)

Mức trích từ ngày 26/06/2021

0

0

0

0

0

Mức trích từ ngày 12/07/2021

0

0

300

200

300

Mức trích từ ngày 27/07/2021

0

0

300

200

300

Mức trích ngày 12/07 so với 26/06/2021

Số tuyệt đối

0

0

300

200

300

%

0,00

0,00

 

 

 

Mức trích ngày 27/07 so với 12/07/2021

Số tuyệt đối

0

0

0

0

0

%

0,00

0,00

0,00

0,00

0,00

Mức trích ngày 27/07 so với 26/06/2021

Số tuyệt đối

0

0

300

200

300

%

0,00

0,00

 

 

 

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Liên Bộ Tài chính - Công Thương

Bảng 3: Mức chi sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu tháng 7/2021

 

Xăng các loại (trừ xăng sinh học, đồng/lít)

Xăng E5 (đồng/lít)

Dầu hỏa (đồng/lít)

Diesel (đồng/lít)

Mazut các loại (đồng/kg)

Mức chi từ ngày 26/06/2021

500

1.500

0

100

0

Mức chi từ ngày 12/07/2021

350

1.300

0

0

0

Mức chi từ ngày 27/07/2021

300

1.250

0

0

0

Mức chi ngày 12/07 so với 26/06/2021

Số tuyệt đối

-150

-200

0

-100

0

%

-30,00

-13,33

0,00

-100,00

0,00

Mức chi ngày 27/07 so với 12/07/2021

Số tuyệt đối

-50

-50

0

0

0

%

-14,29

-3,85

0,00

0,00

0,00

Mức chi ngày 27/07 so với 26/06/2021

Số tuyệt đối

-200

-250

0

-100

0

%

-40,00

-16,67

0,00

-100,00

0,00

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Liên Bộ Tài chính - Công Thương

Như vậy so với cuối tháng 6/2021, tháng 7/2021 liên Bộ tiếp tục không thực hiện trích lập Quỹ bình ổn giá đối với các loại xăng, trở lại thực hiện trích lập Quỹ đối với các loại dầu; liên tiếp giảm mức chi sử dụng quỹ từ ngày 12/7 và 27/7/2021. Việc điều hành này đã khiến cho giá bán lẻ xăng dầu trong nước tháng 7/2021 so tháng 6/2021 có phần tăng nhanh hơn so với mức tăng chung của giá xăng dầu thế giới...

Dự báo: Giá dầu có động lực tăng do sự lạc quan về nhu cầu tăng bởi triển vọng kinh tế thế giới hồi phục, trong khi nguồn cung dầu chỉ được OPEC+ cho tăng nhẹ trong tình trạng bị kiểm soát. Tuy nhiên, biến chủng Delta đang lan rộng tại nhiều nước trên thế giới có thể sẽ khiến cho giá dầu giảm trong thời gian tới. Do vậy, dự báo giá dầu thế giới bình quân tháng 08/2021 có thể sẽ giảm từ 0 – 4% so với tháng 07/2021.

3. Dự báo giá lợn hơi tháng 8/2020 sẽ tiếp tục giảm so với tháng 7/2021, dao động ở mức 52.000 – 56.000 VND/kg.

Trong tháng 7/2021, giá lợn hơi cả nước có diễn biến giảm ở cả miền Nam và miền Bắc. Cụ thể.

Bảng 4: Giá lợn hơi ở Việt Nam tháng 7/2021 (VND/kg)

Khu vực

Tháng 7/2021

So với tháng 6/2021

So với tháng 7/2020

Miền Bắc

57.800 – 61.700

- 7.450

- 31.250

Miền Nam

53.300 – 60.900

- 10.600

- 30.400

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu vinanet.vn và nhachannuoi.vn

+ Tại miền Bắc:giá lợn hơi trung bình khoảng 57.800 - 61.700 VND/kg, giảm 6.800 – 8.100 VND/kg so với tháng 6/2021.

+ Tại miền Nam: giá lợn hơi trung bình dao động 53.300 – 60.900 VND/kg, giảm 9.100 – 12.100 VND/kg so với tháng 6/2021.

Nguyên nhân: giá lợn hơi giảm mạnh trong tháng 7/2021 do chịu ảnh hưởng lớn từ diễn biến dịch Covid-19 phức tạp. Chuỗi cung ứng thịt lợn bị tắc khâu lưu thông, tiêu thụ do nhiều nơi phải thực hiện giãn cách. Nhiều địa điểm phân phối lớn tạm ngừng hoạt động để phòng, chống dịch. Bên cạnh đó, một bộ phận người tiêu dùng giảm mua do thu nhập sụt giảm hoặc không có thu nhập vì khó khăn trong đại dịch Covid-19…

Dự báo: Do diễn biến phức tạp của dịch Covid-19  nên nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội, hoạt động thu mua và vận chuyển gặp khó khăn, lượng tiêu thụ thịt lợn cũng giảm mạnh. Trong tháng 8/2021, giá thịt lợn hơi có thể dao động quanh ngưỡng 52.000-56.000 VND/kg.

4. Dự báo tháng 8/2021 glúa gạo xuất khẩu sẽ giảm từ 2-5% so với tháng 7/2021.

4.1. Giá xuất khẩu:

Trong tháng 7/2021, giá gạo của một số nước xuất khẩu lớn có diễn giảm so với tháng 6/2021. Cụ thể, giá gạo của một số nước được phản ánh như trong bảng 5 và đồ thị 5.

 

 

Bảng 5: Giá bình quân xuất khẩu gạo 5% tấm của Thái Lan, Ấn Độ và Việt Nam          tháng 7/2021

 

Gạo 5% tấm Thái Lan (USD/tấn)

Gạo 5% tấm

Ấn Độ (USD/tấn)

Gạo 5% tấm Việt Nam (USD/tấn)

Giá bình quân tháng 7/2020

460,3

379,5

444

Giá bình quân tháng 6/2021

455

377,7

484,4

Giá bình quân tháng 7/2021

412,4

366,2

445,8

Mức giá T7/2021 so với T6/2021

Số tuyệt đối

- 42,6

- 11,5

-38,6

%

- 9,36

- 3,04

- 7,97

Mức giá T7/2021 so với 7/2020

Số tuyệt đối

- 47,9

- 13,3

1,8

%

- 10,41

- 3,5

+ 0,41

Nguồn: Tính toán từ số liệu của FAO và Reuters

Nguyên nhân:

+ Tại Ấn Độ, giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ giảm do Chính phủ tiếp tục xuất bán gạo dự trữ khiến nguồn cung trên thị trường dồi dào. Đồng nội tệ giảm giá cũng góp phần làm giảm giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ. Bên cạnh đó, tác động tiêu cực của Covid-19 với những khó khăn mà đại dịch gây ra cho việc vận chuyển (như thiếu container, đứt gãy chuỗi cung ứng… dẫn tới cước phí vận chuyển tăng cao) là trở ngại để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu mới.

+ Tại Thái Lan, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan giảm chủ yếu do đồng Baht đang suy yếu và nhu cầu mua thấp khi cước phí vận tải tăng cao.

+ Tại Việt Nam, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm do nhu cầu yếu, trong khi giá gạo xuất khẩu của các nước khác đưa ra rất thấp. Nguồn cung trong nước đang tăng lên khi vào vụ thu hoạch Hè Thu. Trong khi đó, việc vận chuyển gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 bùng phát và diễn biến phức tạp cũng ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu gạo.…

4.2. Giá lúa gạo tại Việt Nam:

Trên thị trường nội địa tháng 7/2021, tại khu vực ĐBSCL, giá một số loại lúa, gạo có diễn biến trái chiều so với tháng 6/2021. Theo hệ thống cung cấp giá tại địa phương, tại An Giang, lúa OM6976 ở mức 5.380 - 5.560 VND/kg (giảm 540 - 620 VND/kg); gạo thường ở mức 11.200 – 12.000 VND/kg (tăng 100 VND/kg); gạo thơm đặc sản Jasmine ở mức 14.000 – 15.000 VND/kg (tăng 375 VND/kg); lúa IR50404 ổn định ở mức 7.000 VND/kg, gạo hạt dài ở mức 18.000 – 19.000 VND/kg, không thay đổi so với tháng 6/2021.

Bảng 6: Giá một số loại lúa gạo tại An Giang tháng 7/2021 (VND/kg)

Loại lúa gạo

Giá T7/2021

So với T6/2021

So với T7/2020

Lúa OM6976

5.380 - 5.560

- 580

- 780

Lúa IR 50404 (lúa khô)

7.000

-

+ 1.050

Gạo thường

11.200 – 12.000

+ 100

+ 400

Gạo hạt dài

18.000 – 19.000

-

-

Gạo thơm Jasmine

14.000 – 15.000 

+ 375

- 250

Nguồn: Tổng hợp số liệu của Bộ NN&PTNN và thitruongnongsan.gov.vn

Dự báo: Tháng 8/2021, thị trường gạo châu Á dự kiến khá trầm lắng khi nhu cầu nhập khẩu thấp, giá gạo xuất khẩu có thể sẽ tiếp tục giảm nhẹ trong bối cảnh chịu tác động tiêu cực của Covid-19 với những khó khăn mà đại dịch gây ra cho việc vận chuyển, như thiếu container hay đứt gãy chuỗi cung ứng.  Vì vậy, dự báo giá gạo xuất khẩu trong tháng 8/2021 có thể sẽ giảm từ 2-5% so với tháng7/2021…

5. Dự báo tháng 8/2021 so tháng7/2021,giá cà phê thế giới có thể tiếp tục tăng từ 4-8%, giá cà phê nội địa Việt Nam sẽ biến động theo xu hướng này.

5.1. Thị trường thế giới

Tháng 7/2021, giá cà phê Robusta và Arabica có diễn biến tăng. Đặc biệt trong 2 tuần cuối tháng 7/2021, giá cà phê đã tăng rất mạnh rồi lại giảm.

- Tại sàn giao dịch London, giá cà phê Robusta giao kỳ hạn tháng 9/2021 bình quân tháng 7/2021 ở mức 1.781USD/tấn(tăng 8,73% so tháng 6/2021);

- Tại sàn giao dịch ICE New York, giá cà phê Arabica giao kỳ hạn tháng 9/2021 bình quân trong tháng 7/2021 ở mức 3.679 USD/tấn (tăng 4,64% so tháng 6/2021). 

5.2. Thị trường Việt Nam

Trong tháng 7/2021 tại thị trường Việt Nam, giá cà phê có diễn biến tăng. Tính chung cả tháng 7/2021, giá cà phê Robusta ở khoảng 35.800 –36.600VND/kg (tăng 1.850 VND/kg so với tháng 6/2021).

Giá xuất khẩu cà phê bình quân trong nửa đầu tháng 7/2021 ước đạt mức 1.879,80 USD/tấn, giảm 5,63% so với tháng 6/2021 và tăng 7,09% so với cùng kỳ năm 2020.

Nguyên nhân:Giá cà phê Arabicatrên thị trường thế giới tăng mạnh trong tháng 7/2021 so với tháng trước do nước trồng cà phê Arabica hàng đầu thế giới làBrazil đang chịu ảnh hưởng của đợt lạnh giá bất ngờ, nhanh chóng đẩy giá cà phê thế giới lên mức cao kỷ lục.Tuy nhiên, trong 2 tuần cuối tháng 7/2021, giá cà phê đã tăng rất mạnh rồi lại giảm rất mạnh, bởi thị trường bị đầu cơ quá mức trước tin tức về sương giá và nỗi lo sụt giảm nguồn cung tại Brazil. Cũng trong thời điểm cuối tháng 7/2021, đồng Real Brazil giảm mạnh so với đồng USD cùng thông tin thời tiết sương giá không gây thiệt hại quá lớn cho cà phê khi đã gần hoàn tất vụ thu hoạch, khiến giá cà phê kỳ hạn lao dốc.

Giá cà phê Robusta trên thị trường thế giới tăng  mạnh trong tháng 7/2021 so với tháng 6/2021 do ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 và giá cước vận tải biển tăng cao khiến nguồn cung từ các nước sản xuất Robusta lớn bị chậm lại.

Giá cà phê trong nước tăng mạnh theo xu hướng tăng chung của giá cà phê trên thị trường thế giới và dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp khiến Việt Nam phải giãn cách xã hội trên diện rộng, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất cũng như vận chuyển hàng hóa...

Dự báo: Trong tháng 8/2021, dự báo nhu cầu cà phê thế giới có xu hướng hồi phục, trong khi nguồn cung của Brazil sụt giảm sẽ để lại một khoảng trống lớn giữa cung và cầu. Trong bối cảnh diễn biến Covid-19 ngày càng phức tạp, chuỗi cung ứng cà phê bị đứt gãy, giá cước vận chuyển quá cao khiến việc giao hàng từ các nước sản xuất lớn ngoài Brazil như Việt Nam… bị chậm lại. Ngoài ra, Honduras, nơi trồng cà phê hàng đầu ở khu vực Trung Mỹ, cũng đang đối mặt với những thiệt hại do đại dịch Covid-19 và bão gây ra… Những trở ngại đó góp phần đẩy giá cà phê đi lên. Vì vậy, dự báo giá cà phê xuất khẩu trong tháng 8/2021 có thể sẽ tiếp tục tăng từ 4-8% so với tháng7/2021.

6. Dự báo giá cao su tháng 8/2021 có thể sẽ giảm từ2-5% so với tháng 7/2021.

6.1. Thị trường thế giới

Tháng 7/2021, giá cao su trên thị trường thế giới có xu hướng giảm khá mạnh.  Tính chung cả tháng 7/2021, giá cao su TSR20 bình quân trên sàn giao dịch SICOM (Singapore) đạt1,63 USD/kg, giảm0,42% so tháng 6/2021; giá cao su RSS3bình quân trên sàn giao dịch SICOM (Singapore) đạt1,87 USD/kg, giảm12,01% so tháng 6/2021.

6.2. Thị trường Việt Nam

Ở Việt Nam tháng 7/2021, giá mủ cao su nguyên liệu giảm so với tháng 6/2021. Tính chung cả tháng 7/2021, Công ty TNHH MTV Tổng Công ty Cao su Đồng Naiđã thu mua mủ cao su (loại mủ chén, khô) với giá trung bình là 12.180VND/kg giảm 1,88% so với tháng 6/2021.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, giá cao su xuất khẩu của Việt Nam trong nửa đầu tháng 7/2021 trung bình ước đạt 1,651USD/kg (giảm 2,94% so với tháng 6/2021 và tăng 37,24% so với cùng kỳ năm 2020).

Nguyên nhân:Giá cao su trên thị trường thế giới trong tháng 7/2021 giảm so với tháng 6/2021do đại dịch Covid-19 tại khu vực châu Á diễn biến phức tạp gây gián đoạn nghiêm trọng hoạt động sản xuất và vận chuyển hàng hóa toàn cầu. Đợt bùng phát dịch Covid-19 tại nhiều công ty sản xuất bán dẫn quan trọng ở Đài Loan và Malaysia đang làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng chip toàn cầu, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động sản xuất của ngành ô tô, cũng như các ngành công nghệ, có tác động tiêu cực đến thị trường cao su thế giới.Bên cạnh đó, giá hàng hóa tăng mạnh dẫn tới lạm phát tại nhiều nước ở mức cao, sẽ có ảnh hưởng đến sự phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19 cũng khiến cho nhu cầu cao su khó tăng như kỳ vọng…

Dự báo: Trong tháng 8/2021, tình trạng lây lan mạnh mẽ biến thể Delta của dịch Covid-19 trên toàn cầu sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và phát triển kinh tế… Vì vậy, dự báo giá cao su tự nhiên trong tháng 8/2021 có thể sẽ tiếp tục giảm từ 2-5% so với tháng7/2021.

7. Lãi suất trong tháng 08/2021 giảm nhẹ trước sự bùng phát dịch Covid-19 biến chủng mới và các đợt giãn cách xã hội tại nhiều địa phương.

7.1. Thế giới

Mặc dù nâng mức dự báo về tỷ lệ lạm phát và triển vọng của nền kinh tế, song Ngân hàng Trung ương các nước nhìn chung vẫn thận trọng trong quyết định chính sách tiền tệ bởi cho rằng đây chỉ là hiện tượng tạm thời của nền kinh tế.Mức lãi suất cơ bản thấp vẫn được duy trì trong tháng 07/2021 như các tháng trước nhằm tránh gây ra xáo trộn trong giới đầu tư ảnh hưởng tiêu cực đến việc phục hồi nền kinh tế. Và mức lãi suất thấp như hiện nay nhiều khả năng sẽ được duy trì ổn định trong năm 2021.

Sau cuộc họp 16-17/6, mặc dù nâng triển vọng tăng trưởng kinh tế và lạm phát tại Mỹ song Fed thông báo giữ nguyênlãi suất quỹ liên bang ở mức 0 - 0,25% kể từ tháng 3/2020 nhằm tăng cường tốc độ phục hồi việc làm vốn còn  đang chậm.

Tương tự như Fed, ngày 22/7, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) tuyên bố vẫn duy trì lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay trung hạn và lãi suất tiền gửi lần lượt ở mức 0%; 0,25% và -0,5%. Quyết định này đưa ra trong bối cảnh đại dịch Covid-19 với biến thể Delta tiếp tục "phủ bóng" lên triển vọng nền kinh tế. khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone).

Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) phát đi tín hiều duy trì ổn định lãi suất cho vay cơ bản (LPR) trong bối cảnh nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đang phục hồi mạnh mẽ và thích nghi tốt trước tác động dịch Covid-19. Theo đó, lãi suất cho vay cơ bản kỳ hạn một năm (LPR) được giữ nguyên ở mức 3,85%, trong khi LPR kỳ hạn 5 năm vẫn ở mức 4,65%, lãi suất cho các khoản vay MLF kỳ hạn 1 năm đối với các tổ chức tài chính vẫn ở mức 2,95%.

7.2. Việt Nam

Mặc dù tình hình dịch Covid-19 biến chủng mới bùng phát lan rộng tại nhiều địa phương, nhiều tỉnh thành duy trì giãn cách xã hội điển hình như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh song cũng như nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn duy trì ổn định lãi suất cơ bản trong tháng 07//2021 như tháng 12/2020 nhằm tránh gây nhiều xáo trộn đến tiến trình phục hồi sản xuất, kinh tế. Cụ thể:

-         Lãi suất tái cấp vốn: giữ ở mức 4,00%/năm;

-         Lãi suất tái chiết khấu: giữ ở mức 2,50%/năm;

-         Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng:giữ ở mức 5,00%/năm;

-         Lãi suất chào mua giấy tờ có giá qua nghiệp vụ thị trường mở:giữ ở mức 2,50%/năm.

Trong khi đó, một số loại lãi suất tiền gửi vẫn duy trì ổn định như tháng 9/2020:

-         Lãi suất đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND giữ ở mức 0,5%/năm;

-         Lãi suất đối với tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng VND giữ ở mức 0%/năm;

-         Lãi suất tiền gửi bằng VND của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ tín dụng nhân dân và Tổ chức tài chính vi mô tại NHNN 0,8%/năm;

-         Lãi suất tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tại NHNN giảm còn 0,8%/năm.

Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tháng 07/2021 đảo chiều với xu hướng tăng trong tuần đầu tháng ở cả ba loại kỳ hạn – qua đêm, 1 tuần và 1 tháng, lần lượt lên mức đỉnh 1,39%; 1,51% và 1,99%/năm trong phiên 5/7; 6/7 rồi trở lại đà giảm trong bối cảnh các đợt giãn cách xã hội được duy trì tại nhiều thành phố lớn trong cả nước. Như vậy, lãi suất liên ngân hàng đang có xu hướng thiết lập một mặt bằng mới cho năm 2021. Mặc dù cao hơn so với mức nền thấp của năm 2020, tuy nhiên mặt bằng lãi suất liên ngân hàng ở thời điểm hiện tại vẫn thấp hơn so với mặt bằng trước dịch Covid-19 (trên 3% đối với cả 3 loại kỳ hạn qua đêm, 1 tuần và 2 tuần trong năm 2019). Trong nửa cuối năm 2021, với lạm phát được dự báo trong vùng kiểm soát và các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như cuộc sống của người dân vẫn đang chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, lãi suất được kỳ vọng sẽ tiếp tục duy trì ở mặt bằng thấp như hiện tại để hỗ trợ cho nền kinh tế.

Trong bối cảnh dòng tiền nhàn rỗi có xu hướng chảy sang chứng khoán, lãi suất huy độngtại một số ngân hàng đã tăng nhẹ so với hồi đầu tháng 05/2021 Cụ thể, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) vừa điều chỉnh tăng nhẹ lãi suất huy động tháng 6 thêm 0,1%/năm tại các kỳ hạn 12 tháng, 24 tháng, 36 tháng lên lần lượt là 5,7-6,3-6,4%/năm.

Trong khi đó, lãi suất tiết kiệm tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) tăng từ 0,1-0,3%/năm với các kỳ hạn dài. Theo đó, lãi suất kỳ hạn 12 và 24 tháng lần lượt áp dụng là 5,8 và 6,55%/năm. Với kỳ hạn 36 tháng, lãi suất gửi tiền tại quầy là 6,4%/năm và gửi online là 6,6%/năm.

Mới đây, Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank) vừa triển khai gói tài khoản Đắc Lộc với lãi suất cao nhất ở kỳ hạn 12 tháng là 6,5%/năm, cao hơn 0,5%/năm so với lãi suất gửi tiết kiệm truyền thống.

Tính chung trên toàn hệ thống, tới cuối tháng 5/2021, lãi suất huy động gần như đi ngang so với tháng 05/2021 với các kỳ hạn ngắn hạn dưới 6 tháng, song có biến động tăng giảm với các kỳ hạn trung và dài hạn từ 6 tháng đến dưới 1

Trở lại
CÁC BÀI VIẾT KHÁC
40 triệu USD hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (25/12/2010)
Các doanh nghiệp lớn ám ảnh bởi vụ Vinashin (25/12/2010)
Giá vàng và USD quay đầu giảm mạnh (22/02/2011)
Giá mặt bằng bán lẻ Hà Nội - TP HCM cùng hạ nhiệt (19/01/2011)
Vàng ‘rơi’ xuống đáy của 2 tháng (21/01/2011)
Thống đốc Ngân hàng giải trình về lãi suất, lạm phát (25/12/2010)
Vàng vượt 36,3 triệu đồng (15/02/2011)
Báo cáo tài chính nhà nước năm 2018 đang dần hoàn thiện (09/01/2020)
Mặt hàng nào giảm giá mạnh sau kì nghỉ lễ? (06/05/2011)
Nhà đất Hà Nội, Sài Gòn rục rịch giảm giá (23/05/2011)
Sữa nội vẫn chưa chịu giảm theo giá thế giới (31/05/2011)
Giảm mục tiêu tăng trưởng, nới chỉ tiêu lạm phát (06/06/2011)
Thị trường bán lẻ Việt Nam liên tiếp rớt hạng (08/06/2011)
Xe ngoại tăng mạnh trước thời điểm siết thủ tục nhập khẩu (27/06/2011)
Thu hút FDI giảm một nửa (28/06/2011)
Xem tiếp
 
 
         Tin tức & sự kiện mới
Viện Kinh tế - Tài chính tổ chức hội thảo “Diễn biến thị trường, giá cả ở Việt Nam năm 2023 dự báo 2024
Báo cáo phân tích dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 07 năm 2023
Viện Kinh tế - Tài chính tổ chức thành công Hội thảo: “Diễn biến thị trường, giá cả ở Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2023”
Viện Kinh tế - Tài chính tổ chức Hội nghị viên chức và tổng kết năm học 2022 - 2023
Báo cáo phân tích dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 06 năm 2023
Lễ ký thỏa thuận hợp tác giữa Viện kinh tế - Tài chính và Trường đại học công nghiệp dệt may Hà Nội
Viện Kinh tế - Tài chính ký Biên bản ghi nhớ hợp tác toàn diện với Tập Đoàn Đinh Lê
Chuỗi chia sẻ về tài chính toàn diện: Khởi đầu của hợp tác đào tạo và nghiên cứu giữa Viện Kinh tế - Tài chính, Học viện Tài chính và Tổ chức OXFAM tại Việt Nam
“Tập huấn cập nhật kiến thức mới về quản lý, sử dụng tài sản công năm 2023”
Báo cáo phân tích dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 03 năm 2023
Báo cáo phân tích dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 02 năm 2023
Báo cáo phân tích dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 01 năm 2023
Báo cáo phân tích dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 12 năm 2022
Báo cáo phân tích dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 11 năm 2022
Báo cáo phân tích dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 10 năm 2022
Báo cáo phân tính dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 9 năm 2022
Báo cáo phân tính dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 8 năm 2022
Báo cáo phân tính dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 7 năm 2022
Báo cáo phân tính dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 6 năm 2022
Báo cáo phân tính dự báo tình hình giá cả thị trường tháng 5 năm 2022
        Email
        Hình ảnh hoạt động
Khóa học Quản trị Tài chính (từ 14-16/7/2011)
Viện kỷ niệm 86 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam
Bế giảng khóa học Quản trị Tài chính (14/5/2011)
Khóa Quản trị Công ty ngày 7-9/4/2011
Bế giảng khóa học Quản trị Công ty (9/4/2011)
Xem toàn bộ

Viện Kinh tế - Tài chính

Số 179 Đội Cấn - Ba Đình - Hà Nội

ĐT: 024 3933 4139

Email: vienkttc@hvtc.edu.vn